Virus hợp bào hô hấp là gì? Các công bố khoa học về Virus hợp bào hô hấp

Virus Hợp Bào Hô Hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) gây bệnh đường hô hấp, đặc biệt nghiêm trọng ở trẻ nhỏ và người cao tuổi. Thuộc họ Paramyxoviridae, RSV là virus RNA không phân đoạn, có vỏ bọc, lây truyền qua giọt bắn và tiếp xúc trực tiếp. Triệu chứng nhẹ như cảm lạnh hoặc có thể nặng hơn, dẫn đến bệnh về phổi. Chẩn đoán bằng các xét nghiệm như RT-PCR, chưa có thuốc đặc trị nhưng triển khai điều trị hỗ trợ. Phòng ngừa bằng vệ sinh cá nhân, hiện chưa có vắc-xin phổ biến, nhưng có Palivizumab cho trẻ nguy cơ cao.

Giới thiệu về Virus Hợp Bào Hô Hấp

Virus Hợp Bào Hô Hấp (Respiratory Syncytial Virus - RSV) là một loại virus thuộc họ Paramyxoviridae, họ này có liên quan mật thiết với các virus khác gây bệnh về đường hô hấp. RSV là nguyên nhân phổ biến gây viêm nhiễm đường hô hấp dưới ở trẻ nhỏ và có thể gây bệnh nghiêm trọng ở người cao tuổi hoặc những người có hệ miễn dịch suy giảm.

Đặc điểm sinh học

RSV là một loại virus RNA không phân đoạn, có vỏ bọc và có hình dạng cầu. Virus này được đặt tên "syncytial" vì khả năng của nó kết hợp các tế bào lân cận để tạo thành các hợp bào đa nhân trong quá trình lây nhiễm. RNA của RSV mã hóa cho 11 protein, trong đó có hai protein bề mặt là G và F, đóng vai trò quan trọng trong sự gắn kết và hợp nhất của virus với tế bào vật chủ.

Cơ chế lây nhiễm

RSV lây truyền chủ yếu qua các giọt bắn nhỏ và tiếp xúc trực tiếp. Khi người bệnh ho hoặc hắt hơi, các giọt chứa virus có thể lây lan sang người khác. RSV cũng có thể sống một thời gian ngắn trên bề mặt đồ vật, do đó, việc chạm vào các bề mặt này và sau đó chạm vào mặt có thể dẫn đến lây nhiễm. Virus có thể lây lan nhanh chóng trong các cộng đồng đông đúc như trường học, nhà trẻ và bệnh viện.

Triệu chứng và biến chứng

Các triệu chứng của nhiễm RSV có thể nhẹ và giống cảm lạnh thông thường, bao gồm ho, sổ mũi, đau họng và sốt. Tuy nhiên, ở trẻ nhỏ và người già, bệnh có thể tiến triển nặng hơn, dẫn đến viêm tiểu phế quản hoặc viêm phổi. Một số người có thể cần nhập viện để điều trị, đặc biệt là trẻ sơ sinh và những người có tình trạng sức khỏe cơ bản yếu.

Phương pháp chẩn đoán

Chẩn đoán RSV thường dựa trên đánh giá lâm sàng và có thể được xác nhận bằng các xét nghiệm phòng thí nghiệm. Các xét nghiệm phổ biến bao gồm xét nghiệm kháng nguyên nhanh, phản ứng chuỗi polymerase dịch chuyển ngược (RT-PCR), và nuôi cấy virus. RT-PCR là phương pháp nhạy nhất và chính xác nhất để phát hiện RSV.

Phương pháp điều trị

Hiện tại, chưa có thuốc đặc trị cho RSV và điều trị chủ yếu là điều trị hỗ trợ, bao gồm việc duy trì độ ẩm không khí, cung cấp nước đầy đủ, và sử dụng thuốc giảm đau hạ sốt. Trong trường hợp nghiêm trọng hơn, bệnh nhân có thể cần hỗ trợ thở bằng máy thở oxy. Một số thuốc mới đang được nghiên cứu và phát triển với hy vọng sẽ phòng ngừa hoặc điều trị hiệu quả hơn trong tương lai.

Phòng ngừa nhiễm RSV

Phòng ngừa RSV chủ yếu dựa vào các biện pháp vệ sinh cá nhân, như rửa tay thường xuyên, tránh tiếp xúc với người bệnh, và vệ sinh bề mặt đồ vật. Hiện có một số vaccine đang được phát triển, nhưng chưa có sản phẩm nào được cấp phép rộng rãi. Palivizumab, một loại kháng thể đơn dòng, được sử dụng để phòng ngừa RSV cho trẻ có nguy cơ cao, nhưng chỉ áp dụng cho những trường hợp nhất định.

Virus Hợp Bào Hô Hấp là một vấn đề y tế công cộng quan trọng, đặc biệt ảnh hưởng đến trẻ em và người cao tuổi. Hiểu biết rõ về các đặc điểm, cách lây truyền, và biện pháp phòng ngừa có thể giúp giảm thiểu tác động của virus này đối với cộng đồng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "virus hợp bào hô hấp":

So sánh mẫu dịch hút họng và mẫu swab họng cho chẩn đoán virus hợp bào hô hấp bằng nuôi cấy tế bào, xét nghiệm huỳnh quang miễn dịch gián tiếp và xét nghiệm miễn dịch enzyme liên kết Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 25 Số 5 - Trang 763-767 - 1987

Các mẫu dịch hút họng (NPA) và mẫu swab họng (NPS) được thu thập từ 32 trẻ sơ sinh đang nằm viện với chẩn đoán viêm phổi (được xác nhận bằng X-quang, 91%) hoặc viêm phế quản cấp đã được kiểm tra nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV) bằng nuôi cấy virus, kỹ thuật huỳnh quang miễn dịch gián tiếp (IFA), xét nghiệm miễn dịch enzyme liên kết (ELISA; Ortho Diagnostic Systems, Inc.), và phản ứng lai tại chỗ với probe genomic người để định lượng DNA tế bào. RSV được phân lập trong các nuôi cấy tế bào từ 72% (23 trong số 32) bệnh nhân bằng cách sử dụng mẫu NPA, so với 47% (15 trong số 32) bằng cách sử dụng mẫu NPS. Với thử nghiệm nuôi cấy mô là tiêu chuẩn tham chiếu, độ nhạy của ELISA trên mẫu NPA và NPS lần lượt là 69% (16 trong số 23) và 61% (14 trong số 23), với độ đặc hiệu và giá trị dự đoán dương tính từ cả hai loại mẫu là 100%. Độ nhạy của kỹ thuật IFA so với nuôi cấy tế bào trên các mẫu NPA và NPS là 61% (14 trong số 23) và 52% (12 trong số 23) với độ đặc hiệu là 89 và 78% và giá trị dự đoán dương tính là 96 và 92%, tương ứng. Mặc dù đã thu được nhiều tế bào hơn đáng kể (được thể hiện bằng việc phát hiện nhiều DNA tế bào hơn khi sử dụng mẫu NPA), virus đã được phát hiện bằng kỹ thuật IFA hoặc ELISA với tần suất tương tự trong các mẫu đối chứng. Tuy nhiên, virus được cách ly thường xuyên hơn từ mẫu NPA so với mẫu NPS bằng nuôi cấy tế bào, và các giá trị mật độ quang học của ELISA cùng với số lượng tế bào phát quang dương tính với RSV cao hơn đối với mẫu NPA. Việc thu thập mẫu dịch hút họng ít gây chấn thương cho bệnh nhân hơn, là một quy trình dễ thực hiện hơn cho bác sĩ và cung cấp một mẫu xét nghiệm tốt hơn cho chẩn đoán RSV so với kỹ thuật swab họng.

#virus hợp bào hô hấp #dịch hút họng #mẫu swab họng #xét nghiệm miễn dịch enzyme liên kết #xét nghiệm huỳnh quang miễn dịch gián tiếp
Các chủng Lactobacillus rhamnosus được dùng qua đường mũi điều chỉnh khác nhau phản ứng miễn dịch kháng virus đường hô hấp và tạo ra khả năng bảo vệ chống lại nhiễm virus hợp bào hô hấp Dịch bởi AI
BMC Immunology - - 2013
Tóm tắt Giới thiệu

Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng các đặc tính miễn dịch khi được dùng qua đường mũi có khả năng cải thiện kết quả của nhiễm virus cúm. Tuy nhiên, khả năng của các đặc tính miễn dịch để nâng cao khả năng bảo vệ chống lại nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV) chưa được điều tra trước đây.

Mục tiêu

Mục đích của nghiên cứu này là: a) đánh giá liệu việc sử dụng qua đường mũi các chủng Lactobacillus rhamnosus CRL1505 (Lr05) và L. rhamnosus CRL1506 (Lr06) có thể cải thiện hệ miễn dịch kháng virus đường hô hấp và điều chỉnh có lợi phản ứng miễn dịch do kích hoạt TLR3/RIG-I; b) điều tra liệu tính khả thi của Lr05 hoặc Lr06 có cần thiết để điều chỉnh miễn dịch đường hô hấp không; và c) đánh giá khả năng của Lr05 và Lr06 trong việc nâng cao khả năng kháng nhiễm RSV ở chuột con.

#Lactobacillus rhamnosus #miễn dịch #virus hợp bào hô hấp #phản ứng miễn dịch #đường hô hấp.
Phương pháp xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym để phát hiện nhiễm virus hợp bào hô hấp: ứng dụng vào mẫu lâm sàng Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 16 Số 2 - Trang 329-333 - 1982

Phương pháp xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (ELISA) dành cho các kháng nguyên virus hợp bào hô hấp đã được áp dụng để chẩn đoán nhanh các ca nhiễm cấp tính ở trẻ em và được so sánh với nuôi cấy virus và các xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang. Xét nghiệm ELISA đã sử dụng các thuốc thử có sẵn trên thị trường và được thực hiện hàng ngày khi các mẫu được nhận vào phòng thí nghiệm. Độ nhạy và độ đặc hiệu của ELISA lần lượt là 82% và 95%, so với nuôi cấy. Đối với cùng các mẫu, độ nhạy và độ đặc hiệu của miễn dịch huỳnh quang lần lượt là 86% và 96%. Các dịch hút từ mũi họng đã được chứng minh là nguồn kháng nguyên virus tốt hơn so với các mẫu gạc mũi họng. Các mẫu dương tính với ELISA vẫn giữ được tính dương tính ngay cả khi không được bảo quản lạnh trong một tuần hoặc được gửi đến phòng thí nghiệm trong các containers nhựa. Virus hợp bào hô hấp ELISA, giống như nuôi cấy, trở nên âm tính khi bệnh tiến triển và không cho thấy ưu thế hơn so với nuôi cấy trong việc chẩn đoán khi bệnh tiến triển muộn.

#virus hợp bào hô hấp #xét nghiệm ELISA #chẩn đoán nhiễm trùng #độ nhạy #độ đặc hiệu
Khuyến nghị thực tiễn cho việc phát hiện nhiễm virus hợp bào hô hấp ở trẻ em Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 22 Số 2 - Trang 270-273 - 1985

Tại cơ sở khám chữa bệnh của chúng tôi, virus hợp bào hô hấp (RSV) được phân lập từ trẻ sơ sinh thường xuyên và sớm hơn từ dung dịch rửa mũi (84%; 4,2 ngày) so với từ mẫu bả họng (45%; 5,5 ngày) hoặc mẫu mũi họng (39%; 5,7 ngày). Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trên các tế bào từ dung dịch rửa mũi đã xác định được 72% trẻ em có virus phân lập từ dung dịch rửa mũi trong vòng chưa đầy một ngày. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị kết hợp việc phân lập và miễn dịch huỳnh quang trên mẫu dung dịch rửa mũi để phát hiện tối ưu trẻ nhiễm RSV. Kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang trên các tế bào đường hô hấp cũng hữu ích trong việc theo dõi sự hiện diện của kháng nguyên RSV trong dịch tiết trong quá trình điều trị kháng virut ribavirin. Khả năng lây nhiễm RSV được duy trì trong dung dịch đệm phosphate ở nhiệt độ phòng trong 6 giờ. Việc vận chuyển và cấy mẫu trong vòng chưa đầy 6 giờ cho thấy 50% trẻ em được lấy mẫu trong hai mùa RSV được phân lập RSV. Để phân lập RSV tối ưu, chúng tôi khuyến nghị cấy vi sinh vật trong các ống HEp-2 có tuổi không quá 4 ngày. Việc thay thế môi trường sau 3 ngày so với 7 ngày không làm tăng tỷ lệ hồi phục RSV và chỉ cung cấp sự giảm thiểu không đáng kể trong thời gian phát hiện bệnh lý tế bào.

#virus hợp bào hô hấp #RSV #trẻ em #phân lập virus #miễn dịch huỳnh quang #điều trị kháng virus #bệnh lý tế bào
So sánh phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và gián tiếp trên mẫu lâm sàng để phát hiện kháng nguyên virus hợp bào hô hấp Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 15 Số 5 - Trang 969-970 - 1982

Các phương pháp nhuộm miễn dịch huỳnh quang để phát hiện kháng nguyên virus hợp bào hô hấp đã được so sánh. Trong số 50 mẫu ban đầu dương tính với virus hợp bào hô hấp qua phương pháp miễn dịch huỳnh quang trực tiếp và nuôi cấy, có 49 mẫu dương tính qua kiểm tra miễn dịch huỳnh quang trực tiếp lặp lại và 32 mẫu dương tính qua kiểm tra miễn dịch huỳnh quang gián tiếp. Các kết quả bổ sung thu được trên các mẫu ban đầu âm tính với virus hợp bào hô hấp qua miễn dịch huỳnh quang trực tiếp, nuôi cấy, hoặc cả hai cho thấy rằng nhuộm miễn dịch huỳnh quang trực tiếp để phát hiện kháng nguyên virus hợp bào hô hấp nhạy hơn so với nhuộm miễn dịch huỳnh quang gián tiếp.

#miễn dịch huỳnh quang #virus hợp bào hô hấp #phát hiện kháng nguyên #mẫu lâm sàng
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VIÊM PHẾ QUẢN PHỔI NHIỄM RSV (Respiratory Syncytial Virus) Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI VĨNH PHÚC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 505 Số 2 - 2021
Viêm phế quản phổi (VPQP) là bệnh lý thường gặp và là nguyên nhân chính gây tử vong ở trẻ em. Virus là nguyên nhân hàng đầu gây viêm phế quản phổi ở trẻ em, trong đó virus hợp bào hô hấp (RSV) là nguyên nhân thường gặp nhất. Mục tiêu: Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân viêm phế quản phổi có nhiễm RSV dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Sản Nhi Vĩnh Phúc. Đối tượng nghiên cứu: 206 bệnh nhân dưới 5 tuổi viêm phế quản phổi có nhiễm RSV trong thời gian từ 01/6/2020 đến 31/05/2021. Phương pháp nghiên cứu: tiến cứu, mô tả cắt ngang. Kết quả: VPQP nhiễm RSV chủ yếu gặp ở nhóm tuổi < 12 tháng tuổi (91,2%). Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là ho, chảy mũi, khò khè, thở nhanh, rút lõm lồng ngực đều chiếm tỷ lệ cao (> 80%). 98,5% bệnh nhân nghe phổi có rale. Hầu hết bệnh nhân có số lượng bạch cầu và CRP bình thường. 90,3% bệnh nhân có hình ảnh tổn thương phổi trên phim Xquang phổi. Trong nghiên cứu của chúng tôi, có đến 51,5% bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán VPQP nặng điều này cũng phù hợp với tỷ lệ trẻ < 2 tháng trong nghiên cứu chiếm tỷ lệ cao. Kết luận: RSV hay gặp gây viêm phế quản phổi ở trẻ < 12 tháng tuổi. Triệu chứng hay gặp là ho, chảy mũi, khò khè, thở nhanh, rút lõm lồng ngực. Số lượng bạch cầu và CRP thường bình thường.
#Viêm phế quản phổi #virus hợp bào hô hấp #RSV
DỊCH TỄ LÂM SÀNG NHIỄM KHUẨN HÔ HẤP CẤP NẶNG DO NHIỄM VIRUS HỢP BÀO HÔ HẤP TẠI KHOA ĐIỀU TRỊ TÍCH CỰC BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) nặng có nhiễm virus hợp bào hô hấp (RSV) tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả tiến cứu 83 bệnh nhân được chẩn đoán NKHHC nặng có nhiễm RSV tại khoa Điều trị tích cực Bệnh viện Nhi Trung ương từ tháng 05/2020 đến 05/2021. Kết quả: Tuổi trung bình 3,3 ± 2,1 tháng, tỷ lệ nam/nữ = 2/1. Đa số ca bệnh tập trung vào mùa thu đông (từ tháng 10 - 12). Bệnh nhân NKHHC nặng chiếm chủ yếu chiếm 72,3%. NKHHC rất nặng chiếm 27,7%. Các tình trạng suy chức năng sống nặng: suy hô hấp độ 3 chiếm 100%, suy tuần hoàn chiếm 31,3%,và suy đa tạng 34,9%. Thang điểm PRISM và PELOD tương đối cao. Hầu hết bệnh nhân có tình trạng nhiễm khuẩn kèm theo SIRS 68,7%, tăng CRP vàprocalcitonin 47% và 78,3%... Tỷ lệ trẻ sinh non cao (30,1%), tình trạng dị tật bẩm sinh kèm theo cao (40,9%), tình trạng bệnh nền cao (30,1%), tỷ lệ đồng nhiễm cao (53%). Đồng nhiễm vi khuẩn là yếu tố liên quan đến mức độ nặng của NKHHC nặng có nhiễm RSV (với p<0,05). Kết luận: Biểu hiện lâm sàng nặng nề nhưng không đặc hiệu. Tỷ lệ trẻ sinh non, dị tật bẩm sinh, bệnh nền và tỷ lệ đồng nhiễm vi sinh vật cao. Đồng nhiễm vi khuẩn là yếu tố liên quan đến mức độ nặng của NKHHC nặng có nhiễm RSV.
#Nhiễm khuẩn hô hấp cấp nặng #virus hợp bào hô hấp.
LIVESPO® NAVAX CHỨA BÀO TỬ LỢI KHUẨN BACILLUS HỖ TRỢ HIỆU QUẢ ĐIỀU TRỊ TRIỆU CHỨNG VÀ GIẢM NỒNG ĐỘ VIRUS HỢP BÀO HÔ HẤP (RSV) Ở TRẺ EM
Đặt vấn đề/ Mục tiêu: Viêm nhiễm virus hợp bào hô hấp RSV (Respiratory Syncytial virus) là một trong những nguyên nhân phổ biến gây bệnh đường hô hấp. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm bước đầu khảo sát tác dụng hỗ trợ điều trị của sản phẩm probiotic LiveSpo® Navax dạng nước chứa bào tử lợi khuẩn Bacillus thế hệ LS-III ở nồng độ cao trên đối tượng trẻ em bị bệnh đường hô hấp cấp do nhiễm RSV tại bệnh viện Nhi Trung ương. Phương pháp: Bước đầu đánh giá trên 30 bệnh nhân được chẩn đoán bị bệnh viêm tiểu phế quản do nhiễm RSV tham gia vào nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng mù. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm (n =15/nhóm): nhóm sử dụng LiveSpo® Navax (nhóm Navax) và nhóm sử dụng nước muối sinh lý NaCl 0,9% (nhóm Chứng), được hướng dẫn xịt mũi với tần suất 3 lần/ngày trong 6 ngày liên tục, kết hợp với sử dụng thuốc điều trị thường quy tại bệnh viện. Bệnh nhân được tiến hành theo dõi các chỉ số lâm sàng (khò khè, khó thở, độ bão hòa oxy,...) trong suốt thời gian điều trị và được thực hiện các xét nghiệm như: (i) đo tải lượng RSV, nồng độ của B. subtilis và B. clausii ở ngày 0 và ngày 3 trong dịch tỵ hầu bằng phương pháp Real-time PCR. Kết quả: Nhóm Navax có thời gian khỏi các triệu chứng xuất tiết mũi, khó thở, ran rít, ran ẩm, rút lõm lồng ngực sớm hơn nhóm đối chứng khoảng 1 ngày. Sau 3 ngày điều trị, tải lượng RSV ở nhóm Navax ở dịch tỵ hầu của bệnh nhân giảm khoảng 300 lần, trong khi nhóm đối chứng chỉ giảm 15 lần, có liên quan tới sự có mặt của bào tử vi khuẩn B. subtilis và B. clausii ở dịch mũi bệnh nhân nhóm Navax mà vắng mặt ở nhóm đối chứng. 100% bệnh nhân sử dụng LiveSpo® Navax không có bất cứ dấu hiệu bất thường nào về rối loạn nhịp thở, mạch, kích ứng niêm mạc mũi, hay tiêu hóa. Kết luận: Đây là nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ở trẻ em đầu tiên trên thế giới về an toàn và tác dụng của probiotic bào tử lợi khuẩn Bacillus ở dạng xịt mũi. LiveSpo®Navax có tác dụng rút ngắn khoảng 1 ngày thời gian điều trị các triệu chứng điển hình của bệnh đường hô hấp do nhiễm RSV gây ra và làm giảm nồng độ virus hợp bào hô hấp RSV trong mũi của trẻ em hiệu quả hơn gấp 20 lần so với nước muối sinh lý. 
9. Viêm phổi nặng mắc phải cộng đồng liên quan vi rút hợp bào hô hấp ở trẻ em tại Cần Thơ
Vi rút hợp bào hô hấp (RSV - Respiratory syncytial virus) là một trong những tác nhân chính gây viêm phổi mắc phải cộng đồng (CAP - Community acquired pneumoniae) ở trẻ em. Đồng nhiễm vi sinh vật ở trẻ mắc CAP nặng liên quan RSV đang được quan tâm vì liên quan sử dụng kháng sinh. Qua phân tích 61 trẻ mắc CAP nặng liên quan RSV ghi nhận, bệnh thường xảy ra ở nhóm < 2 tuổi (70,5%); các triệu chứng lâm sàng hay gặp sốt, ho, thở nhanh, ran nổ ở phổi chiếm tỷ lệ cao > 85%. Xét nghiệm Real-time PCR dịch tỵ hầu ở những trẻ này ghi nhận đến 93,4% trẻ có tình trạng đồng nhiễm với vi khuẩn. Hai vi khuẩn đồng nhiễm nhiều nhất là Streptococus pneumoniae và Haemophilus influenzae. Do đó, kháng sinh vẫn là điều trị quan trọng đối với trẻ mắc CAP nặng liên quan RSV.
#Vi rút hợp bào hô hấp #viêm phổi mắc phải cộng đồng #trẻ em #Cần Thơ
CT của áp xe trung thất trước do vi khuẩn Staphylococcus ở trẻ sơ sinh Dịch bởi AI
Pediatric Radiology - Tập 25 - Trang S205-S206 - 1995
Một bé gái 6 tuần tuổi đã được đưa vào viện vì viêm phế quản nhỏ thứ phát do virus hợp bào hô hấp. Tám ngày sau khi nhập viện, bé đã phát triển một nhiễm trùng do Staphylococcus aureus tại vị trí ống truyền tĩnh mạch trước đó. Mặc dù đã được điều trị bằng kháng sinh, tình trạng này dẫn đến một áp xe tụy trước trung thất chứa Staphylococcus, được phẫu thuật dẫn lưu và bệnh nhân đã hồi phục. Áp xe trung thất rất hiếm gặp ở trẻ em, sự lây lan nhiễm trùng qua đường huyết là một yếu tố nguyên nhân không phổ biến và chúng tôi tin rằng đây là trường hợp đầu tiên được báo cáo do vị trí ống truyền bị nhiễm trùng.
#viêm phế quản nhỏ #virus hợp bào hô hấp #nhiễm trùng #Staphylococcus aureus #áp xe trung thất #trẻ em #điều trị kháng sinh
Tổng số: 25   
  • 1
  • 2
  • 3